Ở mức độ cao hơn một tiểu thuyết khiêu dâm, Florence
Dugas dẫn người đọc tiến dần đến chỗ thưà nhận nỗi đau và sự chối từ hiện hưũ,
mà nguyên nhân bắt nguồn từ một tuổi thơ bất hạnh. Viết thẳng tay bằng một văn
phong sống sượng - nhưng không trơ trẽn - Florence Dugas, với tự truyện Thống
Muội , đã bóc trần mọi tình huống, gây xót xa, băn khoăn, trăn trở nơi người
đọc. Là giáo sư kịch nghệ của hàn lâm viện kịch nghệ tại Pháp, cô cho xuất bản Thống
Muội năm 1996, lúc 28 tuổi.
Hoàng Chính chuyển ngữ từ Peeling trong tập truyện "The Fat Man in History" của Peter Carey. Peter
Carey, tiểu thuyết gia người Úc, sinh ngày 7 tháng 5, 1943, hai lần đoạt giải Man Booker với các cuốn "Oscar and Lucinda" (1988) và "True History of the Kelly Gang" (2001). Hiện Peter Carey dạy đại học tại New York.
Vichto Olegovich Pelevin sinh ngày 22.11.1967 tại Moskva, trong một gia đình quân nhân. Năm 1989 Pelevin thi vào trường đại học năng lượng, từ 1989-1990 học hàm thụ trường đại học viết văn Maxime Gorki. Pelevin bắt đầu sáng tác vào giữa những năm 80, mười năm sau, chưa đầy ba mươi tuổi, có trong tay hơn chục tiểu thuyết, truyện vừa và năm-sáu tập truyện ngắn, anh đã trở thành "hiện tượng bí hiểm nhất và nổi tiếng nhất trong thế hệ các nhà văn hậu Xô Viết".
Hắn tỉnh lại đột ngột. Bốn năm người thanh niên đang kéo hắn ra từ dưới lườn xe. Hắn nếm được vị mặn và máu, một đầu gối bị đau, và khi bị nhấc bổng, hắn phát rên, không chịu nổi sự đụng chạm trên cánh tay mặt. Những
tiếng nói như không thuộc về những khuôn mặt treo ở trên hắn đang bông đùa vỗ về và bảo hắn yên tâm.
Khi tòa báo đề nghị tôi tham gia viết về các nhà văn mà giá trị được cường điệu cao hơn giá trị thật của chính họ, tôi đã nghĩ sẽ từ chối. Tại sao phải tự mình tạo thêm kẻ thù một cách miễn phí? Rồi Robbe-Grillet xuất hiện trong đầu.
Lisa St. Aubin de Terán - sinh ngày 2 tháng 10 năm 1953 – là tác giả người Anh với trên hai mươi tác phẩm đã xuất bản gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ và hồi ký. Bà đã nhận ba giải thưởng văn chương: giải Somerset Maugham cho tiểu thuyết Keepers of the House, giải John Llewellyn Rhys cho tác phẩm The Slow Train to Milan, và giải Eric Gregory cho thơ.
...Tôi sẽ không bao giờ lấy chồng. Không lấy ông nào hết. Tôi rành đàn ông quá. Tôi đã chứng kiến sự phản trắc của họ, tôi cũng đã từng tiếp tay cho họ nữa. Tháo dây kéo, cởi móc và đồng thuận với những động tác mờ ám. Tôi đã từng là tòng phạm, tham gia những tội ác có mưu tính. Tôi đắc tội cố tình làm những người đàn bà khác đau khổ. Tôi thù oán và tàn bạo, tôi có thể làm bất cứ chuyện gì.
Simon Van Booy: những con chim nhỏ Lưu Diệu Vân & Hoàng Chính : chuyển ngữ Tôi vừa tròn mười lăm tuổi khi thức giấc sáng nay. Mỗi năm qua như một lần khoác thêm lớp áo mới lên trên những lớp cũ. Để đôi khi tôi thọc tay vào những chiếc túi ấu thơ và moi ra những món đồ.
Fuentès không bao giờ che giấu sự đam mê của mình dành cho Balzac. Đến mức sắp xếp tác phẩm như một Hài kịch nhân loại a[1] mang tính trần thế Mễ-tây-cơ, với đông đúc nhân vật làm người đọc dễ dàng thất lạc, dù tự nguyện, giống như du khách có thể đi lạc giữa Mexico, thủ đô khổng lồ, tỏa rộng tứ phía, ngây ngất dị kỳ.
Nhà văn Pháp-Á Căn Đình Julio Cortázar (1914-1984) đã khai sáng chủ nghĩa hiện thực phi thường mà những văn bản ngắn, đang tái xuất hiện, cô đọng sức mạnh. Dấn thân chính trị nhưng nhà văn không xúc phạm độc giả theo cách đánh tráo văn chương với tải đạo hay tích lũy những nhượng bộ khiến bút pháp bị nhấn chìm vào thể loại tầm thường của văn tranh đấu. Julio Cortázar là một bậc thầy châu Mỹ La-tinh của dòng văn chương huyễn ảo.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.