- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

NGÔI CHÙA NGÀY XUÂN

13 Tháng Hai 202411:21 CH(Xem: 3117)


NguyenCongKhanh-ChuaNgayXuan
Chùa Phước Huệ, (Tacoma, WA) trong ngày tuyết

 

 

NGÔI CHÙA NGÀY XUÂN

Nguyễn Công Khanh

 

 

Tôi còn nhớ một cái Tết năm xưa, tôi lái xe đưa gia đình từ Seattle xuống Tacoma một thành phố lân cận để đến lễ đầu năm tại một ngôi chùa và chọn cho đúng hướng xuất hành năm mới. Ngôi chùa này và nhà sư trụ trì còn trẻ, lại là một nhà thơ mà tôi đã nghe một người bạn nhắc đến và đây là lần đầu chúng tôi đến lễ. 

Tên chùa là Phước Huệ, nhà sư trụ trì có pháp danh là Thích Phước Toàn, hai cái tên thật là chân phương. Danh vị của nhà sư là Tỳ Kheo, khác với nhiều chùa các vị trụ trì đều là Hòa Thượng hay Thượng Tọa, điều đó không có gì khác biệt đối với sự hâm mộ của tôi với nhà sư. Các chùa khác thường tọa lạc trong thành phố, xung quanh là khu dân cư, chùa Phước Huệ ở xa thành phố, trong một vùng có những cánh đồng còn trống và có những khu rừng nhỏ còn xót lại. Chùa lúc đó còn ở trong một căn nhà nhỏ đơn sơ nằm sát bên đường, trên một khu đất khá rộng nhiều mẫu đã được tạo mãi, bốn bề vuông vắn, bằng phẳng.

Khi chúng tôi đến, buổi lễ vừa chấm dứt. Tôi có dịp đi quanh chánh điện và phòng khách đọc những câu thơ được lồng trong khung kính tỏa chất Thiền viết theo cách thư pháp nghiêm chỉnh và phóng khoáng.

Thấy có khách lạ, nhà sư ra tiếp. Chúng tôi cúi đầu chào và thưa chuyện; tôi gọi nhà sư là “Thầy”, người có nhiệm vụ dẫn chúng sinh vào đạo pháp. Thầy gọi tôi là “Bác”, vì tuổi tôi đã khá cao. Thầy mời sang phòng bên dùng trà. Chúng tôi cùng ngồi xuống một tấm phản lớn, ở giữa đặt một cái bàn làm bằng một khúc rễ cây lớn cưa phẳng tráng một lớp nhựa bóng. Thầy rót nước nóng vào bình trà cổ và đợi một lúc chuyên ra các chén nhỏ. Chúng tôi cùng nâng chén, hương trà thơm thoảng hương vị trang nghiêm của giây phút đầu Xuân. Sau khi thăm hỏi, tôi có nhắc đến tập thơ của thầy vừa xuất bản. Thầy đưa tôi tập thơ, tôi lần giở từng trang, hầu hết là những bài thơ đượm chất Thiền. Tôi chọn những bài thơ mà tôi ưa thích và xin phép đọc. Sau mỗi bài chúng tôi ngưng lại bình thơ và điểm những từ tuyệt cú trong bài.

Giọng Huế của thầy rất nhẹ, bỗng nhiên tôi nhớ đến những ngày hè tôi ở Huế. Cha tôi làm việc ở Đà Nẵng, tôi theo học ở Saigon, cứ mỗi kỳ hè là tôi về thăm gia đình. Đó là những năm cuối thập niên 50. Lần đầu tôi đi bằng đường bộ, có lần bằng đường thủy và sau này bằng đường xe lửa. Đi xe lửa không mất tiền vì cha tôi làm cho sở Hỏa Xa. Tôi thường lên Huế ở hàng tuần với các người bạn mới quen, đạp xe đi thăm gần như hầu hết các lăng tẩm, các ngôi cổ tự cùng những nơi có những cái tên đọc lên là thấy “Huế” rồi.

Thời niên thiếu, ở miền Bắc tôi đã đi qua những làng quê điêu tàn hồi tiêu thổ kháng chiến trong chiến tranh Việt Pháp, không có thời giờ cảm nhận được tình quê hương, nhất là sau này vì những hà khắc của một chế độ nghĩ đến mà còn rùng mình. Khi trưởng thành ra trường tôi được phục vụ tại các tỉnh và quận xa ở miền Nam. Những lúc ngồi xe đò qua những cánh đồng lúa bát ngát, những chiều qua phà Vàm Cống, nhìn dòng sông rộng với những đám độc bình bị nước cuốn trôi nhanh trên dòng nước, thấy cái tình quê sao nó mênh mông trôi nổi đến thế. Nhưng với miền Trung , với Huế thì khác hẳn, có lẽ vào cái tuổi đôi mươi, tôi dễ cảm thấy cái tình tự, cái tình quê hương của miền đất này nó khác hẳn, nó cô đọng, tha thiết hơn nhiều, chẳng thế mà có rất nhiều bài hát về miền Trung và nhất là về Huế được làm ra , được hát lên vẫn làm cho người ta phải rưng rưng .. Tôi nghĩ rằng thầy Phước Toàn cũng đã có những ngày như chúng tôi ở đó.     

Ngồi uống trà và đọc thơ với thầy đã lâu, sợ làm mất nhiều thời giờ, tôi xin phép tạm biệt. Khi bước chân ra ngoài, tôi chợt thấy một quả chuông lớn, một “Đại hồng chung”, được đúc với những hoa văn, linh vật và cổ ngữ chân truyền được treo tạm bên hiên. Ít lâu sau, tôi đọc một tờ báo địa phương báo tin là quả chuông này đã bị mất cắp. Ai cũng nghĩ chuyện như thế rồi cũng qua, của mất đi có bao giờ tìm lại được. Thế mà khoảng hai năm sau, tôi đọc báo có tin là quả chuông đã có người đem trả lại. Tôi nghĩ quả chuông nặng hàng tấn như thế chắc phải cần đến mấy người khuân và phải dùng xe truck mới đem đi được. Thật là có một sự linh thiêng huyền diệu nào đó đã chuyển hóa được lòng người.

*


Bây giờ chùa được coi như đã gần hoàn thành. Khuôn viên chùa nay trông như rộng ra, mênh mông. Bãi đậu xe rộng rãi, không vất vả phải tìm chỗ như nhiều chùa khác. Chùa không xây dựng theo cách hoành tráng, mà đơn giản, nhã nhặn.

Khách thập phương đến thăm chùa, đậu xe xong, hãy để một chút thời giờ thả bộ đi quanh chùa mới thấy những nét đặc thù của chùa được thiết kế theo tính cách thật là nghệ thuật. Chúng tôi đã có dịp  đi như thế một vài lần. Ngay cổng vào, một hồ nước theo hình chữ S, hình của nước Việt Nam. Những gốc cây lớn, những bụi hoa nhỏ quanh đó được chăm sóc như một bức tranh cổ bao bọc hình ảnh đất nước mà mình đem theo. Hãy ngồi ở đó mươi phút và nhớ đến hai câu thơ:

Mái chùa ấp ủ hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tiên.

(Hòa thượng Thích Mẫn Giác) 


Đi theo phía bên trái khuôn viên, là hai hàng tượng Phật và La Hán đứng trải dài. Hãy để lòng thanh thản, bước đi thong thả như những bước thiền hành. Hãy đứng lại trước từng pho tượng, trong cái tĩnh lặng đó, hãy ngắm dung nhan từng vị và chậm rãi đọc những câu kệ, câu thơ được khắc cạnh đó, để những câu đó thấm vào mình. Nếu có con cháu đi theo, hãy bảo chúng đọc lên những hàng Anh ngữ được chuyển dịch và nếu có thể hãy giảng cho chúng biết ý nghĩa của những câu kệ đó. Cái hồn dân tộc, cái nếp sống tổ tiên chắc cần phải được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp.

Phía bên phải khuôn viên có những thảm cỏ xanh, có tượng Phật nằm, hãy tìm một chỗ ngồi. Ngồi trong tĩnh lặng, ngồi trong tỉnh thức để chiêm nghiệm Phật đã nghĩ ra những gì để dẫn dắt chúng sinh. Đạo và Đời thường đi song hành với nhau. Trong Đời có Đạo và Đời sinh ra Đạo. Đạo thì nhập thế như một triết lý để dẫn dắt chúng sinh về Chân Thiện Mỹ. Đời thì biến dạng luôn nhanh như điện tử và kinh kệ vẫn là những chân lý nguyên thủy từ ngàn năm xưa không thay đổi. Phật ở trong ta, trong ta có Phật tính. Ta sẽ thành Phật khi ta biết tu hành trọn đạo.

Hãy đi vào chánh điện lễ Phật, ngôi tượng Phật lớn trong ánh hào quang, hoàn toàn bằng gỗ mộc, không tô điểm nạm vàng sơn son thiếp đỏ.

Cũng đừng quên, hãy nhẹ nhàng lên tầng lầu phía sau chùa, được coi như một bảo tàng nhỏ sưu tập đến trăm bộ đồ trà cổ hiếm có mà tưởng tượng đến người xưa cùng đối ẩm trong trà đạo.

Ngày tết đi lễ chùa, hãy ở lại xin thầy vài chữ chúc Tết cho năm mới như trước kia người ta thường nhờ các ông đồ già viết câu đối mừng Xuân. Chữ của thầy viết trên các chiếc đĩa nhựa trắng, không thua kém gì những nét như phượng múa rồng bay của người xưa.

Nhân dịp đầu Xuân, tôi xin chép lại bài thơ của thầy, nhà thơ Tuệ Minh để quý vị thưởng ngoạn:

 

 

Trường Xuân

Ta về thăm lại một người
Dưới chân Cửu Lũng và đôi gốc tùng

Ta về thăm lại nắng hồng
Nắng pha màu nắng, hương xông ngọt ngào
Khói hương quyện tỏa cao cao
Lửng lơ trước gió, hoa đào ngây ngây

Xuân còn tất cả còn đây
Còn trong ánh mắt, còn đầy con tim
Nghìn xưa tôi vẫn đi tìm
Giáp phòng sinh tử, lặng im kiếp người

Ở đây tôi lại gặp tôi
Gặp mùa Xuân trẻ, đất trời thênh thênh
Cảnh xưa còn đó yên lành
Suối từ Tịnh Thủy biến thành Trường Xuân.



Nguyễn Công Khanh

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Năm 202110:35 CH(Xem: 11557)
Tôi thuộc thơ của thi sĩ Hoàng Cầm từ nhiều năm trước khi biết đến Hoàng Kỳ - người con trai đầu của cụ. Qua nhà thơ Thanh Kim, phóng viên báo Bắc Giang, tôi được gặp anh lần đầu tại thư viện của thị xã Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ). Mới gặp, anh có vẻ lịch sự xã giao, thậm chí như hơi đề phòng- thói quen hình thành trong một hoàn cảnh gia đình đầy sóng gió đã ảnh hưởng sâu đậm tới cuộc đời anh... Nhưng dần dà, cái vỏ ngoài ấy đã biến mất hẳn sau nửa giờ trò chuyện, khi anh hiểu rõ rằng: trước mặt anh là một "con mọt sách", đang muốn tìm hiểu về văn hóa vùng Kinh Bắc...
07 Tháng Năm 20214:48 CH(Xem: 11208)
Tiếng nói đầu tiên của một em bé khi bắt đầu học nói là Me, Mẹ, Mạ, Má, Mommy, Maman, và nhiều nữa với những ngôn ngữ hay tiếng địa phương khác, đặc biệt hầu như đều bắt đầu bằng chữ “M”. Có lẽ đó là mẫu tự thiêng liêng chung của nhân lọai khi gọi người đã cưu mang, yêu thương và đùm bọc mình suốt cả cuộc đời. MẸ ở kinh thành hay MẸ ở nơi thôn dã, MẸ ở trên núi hay MẸ ở dưới biển, MẸ là lá ngọc cành vàng hay MẸ gặt lúa trồng rau….. MẸ cũng mang nặng con chín tháng mười ngày, MẸ banh da xẻ thịt đưa con vào đời, và khi con khóc tiếng khóc đầu đời, MẸ đã vừa khóc vừa cười ôm con vào lòng mà quên đi hết những nhọc nhằn mang nặng đẻ đau. Khỏang thời gian còn lại của MẸ là ôm ấp, bảo bọc, hy sinh, dạy dỗ….. và nhiều lắm của tình mẫu tử MẸ dành cho đàn con của MẸ, và cứ thế mà nhân lọai tồn tại và phát triển.
07 Tháng Năm 20211:54 SA(Xem: 10837)
Tôi gặp anh Nguyên Minh lần đầu tại một quán cà phê vỉa hè đường Phan Xích Long. Hơn mười năm trước tôi thường viết bài trên trang vanchuongviet, ngày ấy chủ biên Nguyễn Hòa chưa ngã bệnh anh còn xông xáo chuyện chữ nghĩa. Anh em thỉnh thoảng gặp nhau khi tôi vào Sài Gòn, hôm ấy có tôi, vợ chồng anh chị Trương Văn Dân _ Elena, anh Nguyễn Hòa hẹn gặp Sâm Thương và Nguyên Minh. Các anh đều là những bậc tiền bối tôi ngồi nghe các anh bàn luận và dự tính ra mắt một tập san văn học nghệ thuật riêng của mình, từ đó anh em quen nhau.
20 Tháng Tư 20215:10 CH(Xem: 11001)
Mỗi lần nghĩ đến chiến tranh, giải phóng đất nước, cách mạng dân tộc, tự do nhân quyền, xuống đường biểu tình... đầu óc tôi lơ mơ liên tưởng đến vụ Thiên An Môn năm nào. Hình ảnh người đàn ông hiên ngang tiến ra giang rộng hai tay đòi hỏi tự do, chận đứng xe tăng, chống lại quyền lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản Trung Quốc. Hình ảnh anh hùng, xem cái chết tựa lông hồng, với lòng đầy thách thức, đòi hỏi tự do dân chủ nhân quyền cho xứ sở. Hình ảnh đó đã đánh mạnh vào tâm não toàn thể người dân trên toàn thế giới. Riêng tôi, vẫn âm thầm nghĩ tới người lính lái chiếc xe tăng khổng lồ đầy răng sắt. Hẳn ông phải là một người rất đỗi từ bi, nhân hậu? Thương người như thể thương thân. Ông từ chối giet người, dù trong tay nắm toàn quyền nghiền nát người đàn ông hiên ngang hùng dũng kia. Hành động nghiền nát đó, sẽ được coi như một chiến công hiển hách đối với đảng và nhà nước.
20 Tháng Tư 20214:59 CH(Xem: 11320)
Tháng tư năm ấy, sao tôi không mấy lao đao về cái chết tự tử của một người chị họ chưa đầy hai mươi tuổi. Năm ấy, một chín bảy lăm, nghe mạ tôi nói chị bị cào nát mặt hoa và ăn đòn phù mỏ chỉ vì lỡ tranh giành một miếng nước ngọt trên chuyến tàu tản cư từ Đà Nẵng vào Nha Trang. Liệu như thế đủ để chị chán sống hay còn vài lý do thầm kín khác mà tôi không đoán được. Ồ phải rồi, nghe kể mẹ chị ấy là mợ tôi ngồi đâu cũng thở dài rất thảm, lâu lâu tuồng như muốn nuốt ực những giọt nước mắt dội ngược vào lòng và lâu lâu thì lại trào ra trăm lời nguyền rủa về những xui xẻo không tránh được, ví dụ nỗi đau rát rực rỡ của mấy bợm máu kinh nguyệt thời con gái chị tôi đã phọc lai láng trên đít quần suốt những ngày chạy giặc thiếu nước và máu ôi thôi là máu của những xác người vô thừa nhận trên con đường lánh nạn.
20 Tháng Tư 20214:23 CH(Xem: 11433)
Tôi đã thay đổi vì biến cố tháng Tư Bảy Lăm, nhưng cũng có thể tôi đã mất thiên đường từ trước khi ra đời. Đó là câu hỏi mà tôi ngẫm nghĩ gần đây. Năm nay tôi 43 tuổi, mặc dù tôi nhuộm tóc và vẫn thích người ngoài khen tôi trẻ, tôi hiểu mình nhiều hơn, và cũng chân thật với mình nhiều hơn lúc còn trong tuổi niên thiếu. Trên nhiều phương diện, có thể tôi cũng đầy đủ hơn ngày xưa. Nhưng tất cả những câu chuyện mà tôi hay kể với bạn bè để biểu lộ tâm trạng “cá ra khỏi nước” mà tôi vẫn cảm thấy đeo đuổi mình thường trực, đều bắt nguồn từ trước biến cố Bảy Lăm.
20 Tháng Tư 20214:18 CH(Xem: 11260)
Tháng 4, 1975, tôi 11 tuổi. Lúc đó tôi sống với cha, em trai và bà nội ở ngang chợ An Đông, Sài Gòn. Mẹ tôi ly dị cha tôi trước đó 2 năm để lấy người tình. Người tình của mẹ tôi làm tài xế cho cha tôi khi hai người còn là cảnh sát. Ông này trẻ, cao, vạm vỡ và đẹp trai hơn cha tôi. Ông cũng galăng, nhỏ nhẹ hơn cha tôi. Có lẽ ông cũng dai và dẻo hơn cha tôi. Vô tư mà chấm, có lẽ hai người xứng đôi. Ai cũng khen mẹ tôi đẹp, nhưng tôi không thấy mẹ tôi đẹp tí nào. Sau này, khi cãi lộn với chồng mới, bà bị bạt tai nên vung lời, “Đồ tài xế!”
15 Tháng Tư 20211:03 SA(Xem: 4446)
Ngày này 46 năm trước, tôi đang rong ruổi trên đường cái quan chạy về Sài Gòn. Gia đình tôi và những người dân miền Trung hớt hải tháo thân khi nghe tin bước chân của quân miền Bắc đang tiến vào Nam. Những người bạn thế hệ tôi ngày ấy ra sao, những ngày tàn cuộc chiến? Những ngày cuối tháng tư, giờ này bà ngoại của Thơ Thơ đang chia gia tài cho con cháu là những lọ xyanua, phòng nếu có điều gì. Mỗi người một lọ thuốc trong vắt, thơm mùi hạnh nhân, thuốc cực độc uống vào vài giây là chết tức khắc, bà nói cầm chắc thuốc độc trên tay là cầm chắc định mệnh của mình. Bà là vợ của nhà văn Hoàng Đạo, giòng họ của nhóm Tự lực văn đoàn, văn đàn vang danh một cõi xứ Bắc. Tôi hiểu tâm trạng của bạn tôi trong đêm cuối ở đài Tiếng nói Tự do trên phòng chờ lầu 2, tất cả gia đình nhân viên trong đài và văn nghệ sĩ miền Nam tập trung để được “ bốc” đi, đêm dài dằn dặc, phía dưới đường phố là sự hoảng loạn của người dân Sài Gòn, mọi người im lặng căng thẳng nghe cả tiếng máy lạnh rì rầm, bạn phải tìm
15 Tháng Tư 202112:27 SA(Xem: 11582)
Chiếc xe gài số lui ra khỏi sân nhà, ngang mấy hàng lan Hoa Hậu và gốc nhãn đang đậu trái nhỏ li ti, thành chùm. Tôi hỏi: Xe nhà mình lúc đó là xe gì? Ba nói Con không nhớ sao? Tôi gấp lại dãi khăn tang trắng. Hôm mãn tang Ba, ở chùa về, tôi đã định đốt dãi khăn trong lò sưỡi. Tháng này trời Cali chưa chiều đã nhá nhem. Tôi để cuộn khăn trở lại bàn nhỏ cạnh đầu giường. Ba không còn ngồi trên ghế gần cửa ra vào. Trong phòng còn có mình tôi.
15 Tháng Tư 202112:10 SA(Xem: 12084)
LTS: Một năm rưỡi trước khi từ trần, tướng Trần Độ đã hoàn thành một tập nhật ký mà ông đặt tên là Nhật Ký Rồng Rắn: bắt đầu từ cuối năm 2000, viết xong tháng 5 năm 2001. Nhật ký Rồng Rắn là một bút ký chính trị trong đó, với tất cả tâm huyết, tác giả trình bày suy nghĩ của mình về các vấn đề chính trị của đất nước. Tháng 6.2001, Trần Độ vào Sàigòn thăm con và nhờ người đánh máy bản thảo. Ngày 10.6, ông đi lấy bản thảo, bản vi tính và sao chụp thành 15 bản. Trên đường về nhà, ông bị tịch thu toàn bộ các bản thảo và bản in chụp, xem là "tang chứng" của tội "viết và lưu hành tài liệu xấu". Cho đến ngày từ trần 9.8.2002, tướng Trần Độ không được trả lại nhật ký của mình. Trích đoạn dưới đây là một phần của nhật ký này. {theo tạp chí Diễn Đàn}.