- Tạp Chí Hợp Lưu  18939 Magnolia St. Fountain Valley, CA 92708 - USA Điện thoại: (714) 381-8780 E-mail: tapchihopluu@aol.com
Tác Giả
Tìm đọc

THƠ MAI THẢO, TIẾNG MƯA THẦM RƠI TRÊN NAM HOA KINH

27 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 36767)

bo1ngthoigian_luuthimai-content

 Bóng thời gian - ảnh Lữ Thị Mai

 

Tôi ít thấy ai yêu thơ như Mai Thảo. Thuộc rất nhiều thơ, đặc biệt thơ tiền chiến và thơ những năm đầu kháng chiến, Mai Thảo có thể nói chuyện về thơ miên man từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày khác. Dường như chỉ khi nói chuyện về thơ, Mai Thảo mới hoạt bát, sôi nổi, say sưa, gửi hết hồn mình trong từng tiếng trầm tiếng bổng. Ly rượu trên tay, đầu lắc lư, mắt lim dim, Mai Thảo nói về thơ với giọng vừa xúc động như khi người ta kể lại một mối tình đầu, vừa thành kính như một con chiên kể về cuộc đời của Người Cứu Thế. Với Mai Thảo, thơ là cái gì thiêng liêng, rất đỗi thiêng liêng, như một tôn giáo. Với Mai Thảo, thơ, "chỉ thơ, mới là ngôn ngữ, là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương" (1).

 

Nhớ, vào những năm 1956, 1957 trên tạp chí Sáng Tạo, Mai Thảo cổ vũ nhiệt liệt, có lúc ồn ào, một cuộc lữ hành mới cho văn chương và cho nghệ thuật. Đi đâu về đâu, chưa một lần Mai Thảo xác định rõ ràng. Mà hình như ông cũng không quan tâm đến cái đích tới. Vấn đề quan trọng nhất, với Mai Thảo lúc ấy, là phải nhổ neo, phải ra khơi, phải giã từ cái bến cũ quạnh hơi thu và đìu hiu lau lách của văn chương tiền chiến, phải tìm kiếm một trời biển khác cho cái mà ông gọi là 'hôm nay' hay 'bây giờ'.

 

Với bản thân mình, Mai Thảo đổi mới văn học bằng cách kéo văn xuôi lại gần hơn nữa với thơ, có lúc cơ hồ xoá nhoà biên thuỳ giữa hai lãnh vực này. Văn xuôi Mai Thảo là văn xuôi thơ. Chất thơ là đặc điểm nổi bật nhất trong toàn cõi văn xuôi Mai Thảo.

 

Có thể nói, Mai Thảo viết văn xuôi với tâm thế của một nhà thơ. Cũng có thể nói, Mai Thảo, tự bản chất, là một nhà thơ.

 

Điều này là nguyên nhân của những thành công lẫn những thất bại của Mai Thảo. Mai Thảo thành công ở chỗ: với biện pháp tăng cường đậm đặc chất thơ vào văn xuôi, ông đã tạo được một phong cách văn xuôi diễm lệ và đài các lạ lùng. Nếu ví văn chương với người phụ nữ thì văn chương Mai Thảo là một người phụ nữ thành thị, trẻ trung, thích son phấn, thích trang sức, rất kiêu sa, đôi khi loè loẹt. Giống Nguyễn Tuân, Mai Thảo, trước hết, là một nhà văn duy mỹ. Văn chương, với Mai Thảo, là một cái đẹp, trước hết, là cái đẹp ở hình thức, ở bút pháp, ở sự lấp lánh của chữ, ở sự óng ả của câu, sự hài hoà trong các đoạn. Tuy nhiên, vì quá chú trọng đến hình thức, quá chú trọng đến nhạc điệu, Mai Thảo ít nhiều đánh mất sự gân guốc của hiện thực và sự sắc cạnh của tư tưởng. Khi mỗi câu văn là một đài hoa mượt mà, chất trí tuệ sẽ tan ra thành hương thành khói. Chỉ còn lại cảm xúc tràn lênh mênh mang. Do đó, từ chỗ duy mỹ, Mai Thảo trở thành một nhà văn duy cảm xúc. Phần lớn những sự mô tả của Mai Thảo đều có khuynh hướng dẫn đến tâm tình. Tả mưa, chẳng hạn, Mai Thảo viết trong mục 'Sổ tay' đăng trên tạp chí Văn số 57: "Mưa lục bát trên những mái nhà, tứ tuyệt trên những đường phố. Và song thất ở những ngã tư." Cơn mưa ấy, rõ ràng vừa là cơn mưa lâm thâm của trời đất vừa là cơn mưa lê thê của thi ca. Nó vừa thực vừa hư. Nó hư nhiều hơn là thực. Nó không mở ra một không gian nào cả. Nó chỉ dẫn người ta vào một tâm cảnh, ở đó, nói như Huy Cận, có "những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi." Thế thôi.

 

Cho nên, không lấy gì đáng ngạc nhiên khi thấy, sau này, Mai Thảo làm thơ nhiều, và vào năm 1989, khi đã ngoài sáu mươi, xuất bản tập thơ thứ nhất của mình. Chỉ có điều đáng ngạc nhiên một cách thích thú là, với thơ, Mai Thảo không những trở về với bản chất của mình, bản chất một thi sĩ, mà còn, hơn nữa, với thơ, ông khắc phục được những nhược điểm khá phổ biến trong văn xuôi của ông trước đây. Có cảm tưởng bao nhiêu tư tưởng nung nấu một đời, khắc khoải một đời, Mai Thảo đều gửi gắm hết vào thơ. Chỉ vào thơ.

 

Đặc điểm nổi bật nhất của tập thơ Ta thấy hình ta những miếu đền là tính chất trí tuệ.

 

***

 

Hẳn Mai Thảo phải thích bài 'Ta thấy hình ta những miếu đền' lắm, ông mới lấy tựa bài này đặt tên cho cả tập thơ. Mai Thảo thích, tôi đoán, có lẽ vì bài thơ thể hiện cô đọng một tư tưởng mà ông hằng ôm ấp:

 

Ta thấy tên ta những bảng đường

Đời ta, sử chép cả ngàn chương.

 

Không nên nghĩ Mai Thảo, ở vào cái tuổi ngoài sáu mươi, đâm ra ngạo thế, như một số nhà thơ trẻ, vì phẫn chí, giả vờ nghênh ngang. Ở hai câu kế tiếp, Mai Thảo giải thích:

 

Sao không, hạt cát sông Hằng ấy

Còn chứa trong lòng cả đại dương.

 

Hạt cát và đại dương. Là gì nhỉ? Là cái cực tiểu và cái cực đại trong Nam Hoa Kinh đấy.

 

Trong suốt tập Ta thấy hình ta những miếu đền, Mai Thảo chỉ nhắc đến mấy chữ Nam Hoa Kinh có ba lần: một lần trong bài 'Bờ cõi khởi đầu' và hai lần trong bài 'Thơ say trên máy bay', tuy nhiên, ở hầu hết những bài thơ khác, nếu để ý, người ta sẽ bắt gặp, đâu đó, thấp thoáng, lung linh, một chút ánh sáng dịu dàng và lặng lẽ đến từ vầng trăng Nam Hoa Kinh.

 

Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, có lẽ Mai Thảo và Chế Lan Viên là hai nhà thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Trang Tử sâu sắc nhất. Thơ của họ phần lớn như một chiếc võng đong đưa giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa một bên là thế giới của cá Côn, của chim Bằng và một bên là thế giới của con ve, của chim cưu.

 

Có điều, Chế Lan Viên chỉ chịu ảnh hưởng của Trang Tử một thời gian ngắn, từ sau tập Điêu tàn đến những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Sau đó, tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, một triết thuyết xây dựng trên căn bản sự mâu thuẫn, dấu ấn của Trang Tử trong thơ Chế Lan Viên càng lúc càng mờ. Cái cực tiểu và cực đại trở thành hai phạm trù riêng biệt, thậm chí, đối lập nhau. Vầng trăng Nam Hoa Kinh vẫn còn đấy, trong thơ Chế Lan Viên, nhưng chỉ còn là một vầng trăng khuyết, hay nói như Thanh Tâm Tuyền, trong một câu thơ thật đẹp: "Một đoá trăng tàn lẩn lút bay."

 

Ở phương diện này, Mai Thảo đi xa hơn Chế Lan Viên: thỉnh thoảng ông đạt đến cái nhìn 'huyền đồng'. 'Huyền đồng' là vượt lên trên tinh thần nhị nguyên, không còn áy náy về nhữngsự mâu thuẫn, không còn băn khoăn về những cái lớn, cái nhỏ, cái đúng, cái sai, cái mình và cái không phải mình. 'Huyền đồng' là ý thức về cái Một: con người và vũ trụ là Một ("Vạn vật dữ ngã đồng nhất" - Nam Hoa Kinh, thiên 'Tề vật luận'.)

 

Cái nhìn 'huyền đồng' này được Mai Thảo diễn tả khá hoàn chỉnh trong bài 'Cục đất':

 

Biển một đưiờng khơi xa thẳm xa

Núi vươn trượng trượng tới mây nhoà

Thì treo cục đất toòng teng giữa

Cho cái vô cùng vẫn nở hoa

 

Biển và núi là những cái cực đại, cục đất là cái cực tiểu. Cái cực tiểu ở đây lại là 'hoa' của cái cực đại. Vẫn có khác nhau đấy. Nhưng khác mà không biệt. Trong đoá hoa kia có đất có biển có núi có cả những áng mây xa, nghĩa là có cái vô cùng. Thì thành là một.

 

Cục đất và biển và núi là Một; hạt cát và đại dương là Một; cái 'tiểu ngã' và cái 'đại khối' (tức vũ trụ, theo chữ dùng trong Nam Hoa Kinh) là Một. Vậy tại sao Mai Thảo lại không có quyền nghĩ là bao nhiêu huyết lệ trong trời đất đều phát sinh từ huyết lệ mình; bao nhiêu vòng quay của vũ trụ đều phát sinh từ hạt bụi của mình, từ đó, tiến xa hơn, nhìn thấy hình ảnh của mình trong những miếu đền, giữa những trầm hương nghi ngút; trong những công viên, giữa những tượng thờ nghìn bệ; trong trời cao, giữa những vì sao chi chít; trong lịch sử, giữa những trang sách nặng trĩu tên người? Tại sao không?

 

Kết quả của cái nhìn 'huyền đồng' là một tinh thần ung dung tự tại, cái tinh thần "không ham sống, không ghét chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi" (Nam Hoa Kinh, thiên 'Đại Tông Sư'), hay nói như Mai Thảo, trong bài 'Sáu mốt', là cái "tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm":

 

Sáu mốt cùng ta đứng trước thềm

Đợi trời thả tặng chút xuân thêm

Trời thôi tặng phẩm, xuân còn hết?

Còn cái tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm. (2)

 

'Tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm', trong ý nghĩa tuyệt đối của nó, là một trạng thái 'chân không' tịch lặng, trong ngần, ở ngoài mọi gió bão, xa lắc những xôn xao:

 

Sao phải đợi chờ chim én báo

Một đoá vui người đủ tuyết tan

(Tin xuân)

 

Tuyết, đâu phải chỉ là tuyết. Tuyết, ở đây, còn là một cục bướu ung thư đang phục kích trong thân hình Mai Thảo. Mai Thảo kể, cái lần đầu tiên, sau khi rọi hình, biết chắc ông bị ung thư, vị bác sĩ quen đã yêu cầu ông nằm lại phòng khám để nghỉ ngơi, nhưng Mai Thảo đã từ chối. Ông ra về. Đi bộ. Ghé vào một quán rượu. Gọi một chai Cognac. Đem cái cay của cuộc đời đổ vào cái đắng của lòng mình. Dần dần, ông coi cái cục bướu ung thư trong thân thể mình như một người bạn để thỉnh thoảng lại chuyện trò:

 

Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện

Ta lại cùng cơ thể chuyện trò

Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn

Nó nghĩ sao rồi nó lại cho.

 

Bệnh ở trong người thành bệnh bạn

Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân

Gối tay lên bệnh nằm thanh thản

Thành một đôi ta rất đá vàng.

(Dỗ bệnh)

 

'Không hiểu', theo tôi, là một trong những bài thơ tuyệt cú hay nhất của Mai Thảo:

 

Thế giới có triệu điều không hiểu

Càng hiểu không ra lúc cuối đời

Chẳng sao, khi đã nằm trong đất

Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.

 

Đáng để ý hơn cả, trong bài thơ trên, là hai chữ 'chẳng sao'. 'Chẳng sao, rất bất cần. Bất cần cái chuyện 'có triệu điều không hiểu'. Bất cần cả cái chuyện 'khi đã nằm trong đất'. Câu cuối, như một vì sao xa xăm, mở ra những chân trời vời vợi.

 

Hiểu hay không hiểu, rốt cuộc, thì cũng vậy thôi mà:

 

Có lúc nghĩ điều này điều nọ

Cảm thấy hồn như một biển đầy

Có khi đếch nghĩ điều chi hết

Hệt kẻ ngu đần cũng rất hay.

(Có lúc)

 

Và cả cái chết nữa, trong bài 'Món đất' sáng tác sau khi tập ta thấy hình ta những miếu đền xuất bản, đăng trên tạp chí Văn số 88 ra vào tháng Mười 1989, Mai Thảo cũng hình dung như một bữa tiệc:

 

Đất tưởng còn xa trời vẫn gần

Giờ đất đã gần trời xa dần

Khăn bàn trải sẵn cùng thân thế

Đợi chiếc khay trời món đất ăn.

 

Hơi hai câu thơ đầu, tôi rất thích: nó có hình ảnh một đường nghiêng. Khởi đầu là 'đất tưởng', hai chữ vần trắc, trên cao, thoải xuống từ từ với chữ 'gần' được lặp lại hai lần và cuối cùng, xuống thật thấp, tận thung lũng sâu và rộng với ba chữ vần bằng thoi thóp 'trời xa dần'. Té ra, bên trong cái dáng vẻ điềm tĩnh, rất Trang Tử của mình, tâm hồn Mai Thảo vẫn có một chút đìu hiu.

 

Ở trên, tôi có viết thỉnh thoảng Mai Thảo đạt đến cái nhìn 'huyền đồng'. Chỉ thỉnh thoảng thôi. Không phải luôn luôn. Mai Thảo chỉ giữ được thái độ thanh thản, ung dung khi đối diện với những vấn đề có tính chất siêu hình, những vấn đề liên quan đến cuộc đời, đến con người, đến kiếp người nói chung. Nhưng khi đối diện với những vấn đề cụ thể hơn, đến đất nước, đến hoàn cảnh lưu vong, đến bạn bè mình và bản thân mình đang trầm luân trong thời cuộc, thơ Mai Thảo biến thành những tiếng mưa thầm:

 

Bước một mình qua ngưỡng cửa năm

Nhân gian tịch mịch tiếng mưa thầm

(Trừ tịch)

 

Mưa thầm. Những cơn mưa lê thê và tái tê của quốc nạn cứ tuôn rơi dào dạt trong lòng mọi người Việt Nam. Mưa sướt mướt trên trại giam có Nguyễn Sỹ Tế, có Phan Nhật Nam, có Tô Thuỳ Yên... vác thánh giá. Mưa ngùi ngùi thương "những Thanh Tâm Tuyền trăm năm đã xa", "những Vũ Hoàng Chương nghìn ngày đã khuất", những Bùi Giáng "ngày ca múa khóc cười giữa chợ", "tối tối về chùa đêm làm thơ." Mưa phơi phới bay theo Mai Thảo trên đường vượt biển "giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta." Mưa giàn giụa trên Vũ Khắc Khoan, trên Nghiêm Xuân Hồng, trên Võ Phiến, trên Mặc Đỗ, trên Thanh Nam, trên Tuý Hồng... đội mũ gai nơi cõi lưu đày. Mưa. Mưa trùng trùng. Mưa điệp điệp. Những tiếng mưa thầm và những giọt mưa đen:

 

Nửa khuya đợi bạn từ xa tới

Cửa mở cầu thang để sáng đèn

Bạn tới lúc nào không biết nữa

Mưa thả đều trong giấc ngủ đen

(Đợi bạn)

 

Mưa. Mưa trên niềm nhớ nhung quê hương không nguôi:

 

Nhánh hương thắp nửa này trái đất

Bay đêm ngày về nửa bên kia

(Năm thứ mười)

 

Mưa. Mưa rơi trên từng ngày, từng ngày trôi giạt:

 

Mỗi ngày một gạch mỗi ngày giam

Lên bức tường câm cạnh chỗ nằm

Gạch miết tới không còn chỗ gạch

Gạch vào trôi giạt tới nghìn năm

(Mỗi ngày một)

 

Mưa từ quá khứ xa mưa tạt về:

 

Đôi lúc những hồn ma thức giấc

Làm gió mưa bão táp trong lòng

Ngậmngùi bảo những hồn ma cũ

Huyệt đã chôn rồi lấp đã xong

(Quá khứ)

 

Mưa. Vẫn mưa. Mưa trong những tách trà buổi sáng. Để thành một "ngụm đau trời đất" dành cho kẻ ly hương:

 

Trà đựng trong bình trí nhớ câm

Rót nghiêng từng ngụm nỗi đau thầm

Hoà chung cùng ngụm đau trời đất

Là mỗi ngày ta mỗi điểm tâm

(Điểm tâm)

 

Có lúc Mai Thảo tự nhủ:

 

Đừng khóc dẫu mưa là nước mắt

Đừng đau dẫu đá cũng đau buồn

(Em đã hoang đường từ cổ đại)

 

Thì cũng là một cách tự động viên. Làm sao mà hết não nề được khi vẫn còn đây, mỗi ngày, những bước chân lang thang giữa phố người, những mắt nhìn ngơ ngác giữa "rừng vô tuyến, ống thu lôi."

 

Làm thân sư tử cao nghìn trượng

Tự thuở xa rừng khóc chẳng thôi

(Manhattan)

 

Thanh Nam, lúc còn sống, từng có một kinh nghiệm thấm thía:

 

Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng

Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do

(Thơ xuân đất khách)

 

Chắc chắn Mai Thảo cũng từng chia sẻ kinh nghiệm ấy:

 

Tôi tự do phơi phới một đời

Sao từng lúc lòng còn nhỏ lệ

(Thơ say trên máy bay)

 

'Từng lúc' khác với 'đôi lúc'. 'Từng lúc' là triền miên một nỗi đau dài thỉnh thoảng ứa ra một giọt nước mắt nghẹn ngào. Nỗi đau hoá thành đất thành trời thành chiều thành đêm:

 

Ngồi tượng hình riêng một góc quầy

Tiếng người: kia, uống cái chi đây?

Uống ư? một ngụm chiều rơi lệ

Và một bình đêm rót rất đầy

(Một mình)

 

Tôi ngờ là, trong những bài thơ say của Việt Nam, hiếm có bài nào bi thiết và tha thiết như bài thơ nói về cái say của bức tượng lữ thứ này.

 

Bức tượng? Vâng, một bức tượng bất động lặng lẽ như một khối buồn câm:

 

Tựa lưng vào vách tường thân thuộc

Trong cõi riêng buồn lại thấy ta

(Bộ đồ cũ mặc)

 

Trong bài 'Lộ trình', Mai Thảo tự gọi mình là một bức tượng: "tượng người vô giác."

 

Xe lao chở tượng người vô giác

Vào ngả lâm chung lối tử hình

 

Bức tượng ấy, giữa cõi nhân gian, bước từng bước lạc lõng và lạc loài. Ấn tượng nổi bật nhất toát lên từ thơ Mai Thảo là ấn tượng nặng nề, day dứt của sự cô đơn. Mai Thảo có đông bạn bè. Trong tập Ta thấy hình ta những miếu đền, có khá nhiều bài Mai Thảo viết về bạn bè, viết cho bạn bè, viết nhân lúc đi thăm viếng bạn bè. Có điều, từ hơi thơ đến hình tượng thơ đến cảm xúc thơ, người ta vẫn thấy dường như bao giờ ông cũng lẻ loi. Ông thường làm thơ trên đường đi chứ không phải lúc đã đến.

 

Thơ Mai Thảo rất ít tiếng động. Cho dù có tiếng động đi nữa thì những tiếng động ấy cũng chỉ được dùng để làm đậm nét thêm cái lặng lẽ, cái tịch mịch trong tâm hồn Mai Thảo. Đi giữa rừng giữa suối; rừng xôn xao, cũng mặc; suối ào tuôn, cũng mặc, Mai Thảo vẫn chìm đắm trong cõi trời đất quạnh quẽ của riêng ông. "Với buổi chiều ta giữa lối buồn." Đó là Mai Thảo. "Tai đã từ bao lạc tiếng đời." Đó là Mai Thảo. "Đi dưới mưa một mình." Đó là Mai Thảo. Và cũng làm nữa, cái bằn bặt não nề này:

 

Ngất đỉnh cây kia gió thét gào

Trọn mùa. Thành động biển trên cao

Bến ta tối khuất từ xa biển

Bờ chẳng còn ngân tiếng sóng nào

(Santa Ana Winds)

 

Tôi yêu bài thơ 'Không hiểu' dẫn trên, tôi cũng yêu lắm bài thơ 'Không tiếng' dưới đây, rất Đường thi, ngỡ như một bài thơ thiền:

 

Sớm ra đi sớm hoa không biết

Đêm trở về đêm cành không hay

Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu

Nơi góc tường in cái bóng gầy

 

Bài thơ mang tựa đề là 'Không tiếng' nhưng thật ra nội dung lại nói đến chuyện không hình. 'Không tiếng' chỉ ám chỉ sự đi về lặng lẽ; đi, đi rất sớm; về, về rất trễ. Nhưng ai đi? ai về? Cả hai câu đều thiếu chủ từ. Không ai đi, không ai về cả. Cái dấu mà đôi lúc vầng trăng tìm thấy chỉ là một cái bóng gầy nơi vách tường. Chỉ là cái bóng thôi. Chỉ là cái ảo thôi. Thế đấy, cái con người từng thấy tên mình trên các bảng đường, thấy hình mình ở những miếu đền lại cũng thấy nữa, thấy rất rõ cái hư vô, cái hư ảo của cả kiếp mình.

 

Cái ảo ấy lại cưu mang một nỗi buồn rất thực:

 

Tả ngạn đời ta một nhánh hoa

Bên kia hữu ngạn vẫn thơm va

Hương bay thần chú qua lìa đứt

Mỗi tới bên này mỗi lệ sa

(Tả ngạn)

 

Thơ Mai Thảo, những bài làm sau 75, có thể nói là những giọt lệ rơi trên một triền núi thẳm, cái triền đi xuống những thung sâu. Đôi lúc, Mai Thảo dùng động từ 'khóc', nhưng thơ của ông, rất lặng lẽ, chỉ là những tiếng khóc thầm, những nỗi đau thầm. Tất cả đều âm thầm. Như những tiếng mưa thầm.

 

Thơ Mai Thảo là những tiếng mưa thầm rơi trên Nam Hoa Kinh.

 

***

 

Có lẽ Mai Thảo sẽ là một trong những người đầu tiên phản đối nhận định này của tôi. Ông sẽ nói ông rất ghét những con đường thẳng, những cái 'nhất dĩ quán chi' trong triết học như ông từng viết trong bài 'Em đã hoang đường từ cổ đại':

 

Con đường thẳng tắp con đường cụt

Đã vậy từ xưa cái nghĩa đường

Phải triệu khúc quanh nghìn ngả rẽ

Mới là tâm cảnh đến mười phương

 

Tôi biết. Tôi thấy những ngả rẽ ấy. Tôi thấy những hồi quang của chủ nghĩa hiện sinh trong thơ Mai Thảo. Tôi thấy những lúc Mai Thảo cười hóm hỉnh, thật duyên dáng, như trong bài 'Chỗ đặt'. Tôi cũng nghe cả những khi Mai Thảo gào thét:

 

Dậy đi! Day hết thành giông bão

Nhảy dựng ngang trời thế đá tung

(Gọi thức)

 

Tuy nhiên, tôi nghĩ, dù sao, đó cũng chỉ là những ngả rẽ nhỏ, hẹp và cụt. Bên cạnh những ngả rẽ ấy, trong tâm hồn Mai Thảo vẫn có hai đại lộ thênh thanh, hai 'con đường chiến lược' quyết định hình thể núi non, sông biển và phố xá. Một đại lộ là tâm trạng thanh thản, an nhiên của những bậc hiền giả ngày xưa và một đại lộ là tâm trạng bi thương, thê thảm của những người Việt Nam lưu vong trong hiện tại.

 

Sẽ là một khiên cưỡng, hơn nữa, một sai lầm nếu quan niệm hai con đường ấy cứ song song chạy miết bên nhau. Không phải. Trong thơ Mai Thảo, với nhiều mức độ khác nhau, hai con đường này không ngừng giao thoa với nhau. Để, hiếm khi nào Mai Thảo chỉ là một ánh trăng sáng, cũng hiếm khi nào chỉ là một tiếng mưa thầm. Thơ Mai Thảo là cõi thơ vừa có trăng vừa có mưa. Có lúc trăng tròn đầy và mưa chỉ lay bay. Có lúc mưa là mưa dầm và trăng chỉ là trăng khuyết. Ngay trong bài 'Ta thấy hình ta những miếu đền', bài thơ đậm đà phong vị Nam Hoa Kinh, người ta vẫn bắt gặp một ý nghĩ lạc loài, rất xa lạ với Trang Tử: "Địa ngục người là, kẻ khác ơi!" Một câu nói của Jean- Paul Sartre. Rồi trong bài 'Em đã hoang đường từ cổ đại', một bài thơ rất xuân sắc, cũng hằn lên một thoáng ngậm ngùi. Ở cái chỗ, tuy tự nhủ là đừng buồn, đừng khóc, song Mai Thảo lại tự biết không thể không khóc khi ngay cả mưa cũng là nước mắt, không thể không buồn khi ngay cả đá cũng tang thương. Ngược lại, những lúc Mai Thảo buồn rầu và bế tắc nhất, trời đất cũng không vì thế mà tối sầm hẳn lại. Nhờ, đâu đó, trong tâm tưởng Mai Thảo, như một làn ao trong thơ Nguyễn Khuyến, vẫn lóng lánh bóng trăng loe.

 

Những cơn mưa trong thơ là một hiện tượng cũ càng. Chế Lan Viên: "Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi." Huy Cận: "Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú." Viết về nỗi buồn, lại viết bằng thể thơ rất cổ điển là thể thất ngôn tứ tuyệt, Mai Thảo phải chấp nhận nhiều thử thách để khẳng định được phong cách riêng. May, Mai Thảo thành công. Thơ ông, ngay ở những bài viết về cái già, cái chết, vẫn có giọng rất trẻ. Trẻ và mới.

 

Trẻ và mới ở cách dùng chữ: "Có khi đếch nghĩ điều chi hết." Trẻ và mới ở cách ngắt câu: "Tường. Ở bên kia có một nàng." Trẻ và mới ở cách sử dụng biện pháp bắc cầu và chữ 'và' lửng lơ rất hiếm thấy trong thể thơ tuyệt cú: "Vàng đâu? Chỉ thấy tối thui và." Trẻ và mới ở cách nhìn: "Xuống thêm từng chút thêm từng chút / Ồ hoá đồi nương với núi rừng." Trẻ và mới ở cảm xúc: "Mười năm gặp lại trên hè phố / Cười tủm còn thương chỗ đặt nào."

 

***

 

Có lần, trong một cuộc trò chuyện, Mai Thảo bảo ông chỉ làm thơ chơi thôi. Thì đành vậy. Ai mà chẳng làm thơ chơi thôi? Nguyễn Du viết Kiều, làm thơ chữ Hán cũng là làm chơi thôi chứ gì? Thế nhưng, hai câu thơ này là của Nguyễn Du đấy:

 

Tưởng rằng nói để mà chơi

Song le lại động lòng người lắm thay (3)

 

Nguyễn Hưng Quốc

Paris, 1990

 (Nguồn: HỢP LƯU 100)

 

Chú thích:

(1) Lời giới thiệu in ở bìa sau cuốn Ta thấy hình ta những miếu đền do Văn Khoa xuất bản tại California năm 1989.

(2) Nhớ, khi đọc bài thơ này của Mai Thảo trên tạp chí Văn, tôi có viết cho ông mấy dòng khen cái “tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm” của ông. Sau đó, ông làm một bài thơ khác, bài “Tin xuân”, để nói thêm về cái “tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm” ấy. Bài thơ này, khi in vào tập Ta thấy hình ta những miều đền, Mai Thảo ghi “tặng Nguyễn Hưng Quốc”:

 

Những bầy chim én báo tin Xuân
Không tới. Đài Xuân vẫn trắng ngần
Sao phải đợi chờ chim én báo
Một đoá vui người đủ tuyết tan

 

(3) Bài này thoạt đầu đăng trên tạp chí Văn Học số 49 ra vào tháng 3.1990, sau, in lại trên tạp chí Hợp Lưu số 16 ra vào tháng 4 và 5.1994 với một ít sửa chữa.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Giêng 20224:09 CH(Xem: 11574)
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới. Thế nhưng, ở một nơi xa kia, có một ông già gầy gò, ốm yếu, tóc bạc hàng ngày đến thư viện các trường đại học ở Mỹ để photo các tài liệu về văn chương Miền Nam Việt Nam, hàng ngày ông “ngồi khâu lại di sản”, vá lại một nền văn học đã bị đốt cháy trên chính quê hương mình, tự mình thành lập tủ sách di sản văn chương Miền Nam nhằm lưu giữ, chia xẻ lại cho đời sau, đó là nhà văn Trần Hoài Thư.
28 Tháng Mười Hai 202110:43 CH(Xem: 10081)
Cuộc triển lãm này nêu ra luận điểm rằng bản chất nội tại của sự sống và của tất cả các sinh vật là không đồng nhất, mà đúng hơn là được kết cấu bằng nhiều mối tương quan dị biệt để tạo ra Cái Khác. Luận điểm này, vì thế, đã phá vỡ mọi tôn ti dựa vào những khái niệm áp đặt về bản sắc và tính đồng nhất.
15 Tháng Mười Hai 20219:00 CH(Xem: 10101)
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau: “Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt, những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
08 Tháng Mười Hai 202110:17 CH(Xem: 9777)
Chúng tôi xin được lấy tên thiên tiểu luận đặc sắc Một cuốn kinh về tình thương [12, tr.139] của nhà văn Lưu Trọng Lư làm nhân lõi cho nội dung bài viết này. Người viết vốn được mệnh danh là “nhà văn của tình thương” từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước đã “chiêu tuyết” cho nhân vật từng bị phán xét là “đĩ đứng đầu” bằng những lời nồng nhiệt, đặc biệt nhận định Thúy Kiều là “kẻ có một mối từ tâm lớn” [13, tr.1690]. Và suốt từ khi Truyện Kiều ra đời đến nay, tình thương hay “mối từ tâm lớn” toát ra từ kiệt tác này cùng những giá trị nội dung tư tưởng nhiều mặt của nó đã/ đang được bàn luận sôi nổi, với nhiều lý thuyết cũ - mới chắc không bao giờ chấm dứt…
28 Tháng Mười Một 20219:39 CH(Xem: 9707)
Xem xong phim “LEVIATHAN”, tôi nhớ tới bộ phim màu Liên-xô “ILIA MUROMET” từ hơn nửa thế kỷ trước và chợt nghĩ: nhiều người có tuổi thơ đã từng say mê dán mắt trên màn ảnh bộ phim quay về một câu chuyện cổ tích Nga nọ, nếu hôm nay được xem bộ phim Nga hiện đại “LEVIATHAN” dựa theo câu chuyện về một quái vật thần thoại trong Kinh Thánh, chắc sẽ bàng hoàng, ngỡ ngàng đến đau đớn… Cái vẻ đẹp phi thường của dũng sĩ huyền thoại Nga chiến thắng rồng lửa nhiều đầu để bảo vệ hạnh phúc dân lành giờ đã biến mất tăm, chỉ còn lại trên đất nước hùng vĩ ấy sự thống trị & lộng hành của cái ác, sự giả dối đáng kinh tởm, trở thành lãnh địa của những kẻ ngang nhiên chà đạp lên quyền sống người lương thiện, bên đống xương mục của Cá Ông voi,Vua Biển cả - vết tích sót lại của một thời cổ tích tựa ánh tàn của mơ ước Con người từ ngàn xưa đang hấp hối…
18 Tháng Mười Một 20213:43 CH(Xem: 11566)
Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 & 27.7.2000]
01 Tháng Mười Một 202111:05 CH(Xem: 10457)
Tôi xin tạm mượn nhận định của một nhà văn học sử Nga viết về văn hào F. Dostoyevsky để nghĩ về phim AIKA (sản xuất năm 2017) - bộ phim đã đoạt một số giải thưởng Quốc tế mà tôi vừa được xem, vì thấy rõ một điều: truyền thống hiện thực chói sáng của văn học Nga cổ điển - tiêu biểu là F. Dostoyevsky hóa ra vẫn được tiếp tục một cách xứng đáng trong văn học nghệ thuật Nga hiện đại (ở đây tôi chỉ xin nói tới một dòng của điện ảnh Nga tạm gọi là “Hiện thực tàn nhẫn không thương xót”) - có nghĩa là đã vượt qua vòng “Kim cô” Hiện thực xã hội chủ nghĩa từng thống trị tinh thần xã hội Xô Viết một thời gian dài dẫn đến những tác phẩm nghệ thuật nặng tuyên truyền phục vụ kịp thời và đã rơi vào lãng quên…
26 Tháng Mười 202112:17 SA(Xem: 10498)
“… những cố gắng suy nghĩ của một người vẫn ước muốn tự đặt cho mình một kỷ luật đồng thời cũng là một lý tưởng là phải tìm kiếm không ngừng, bằng cách tự phủ nhận, bất mãn với quãng đường mình vừa qua và cứ như thế mãi mãi…” [Cùng bạn độc giả, Lược Khảo Văn Học I] [1] Nguyễn Văn Trung
10 Tháng Mười 202111:31 CH(Xem: 10493)
Sau khi đưa một cảm ngôn về bức tranh của họa sĩ Lê Sa Long & ý kiến của nhà văn Trần Thùy Linh như một lời kêu gọi các nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ hôm nay: “DỰNG TƯỢNG ĐÀI NÀY ĐI: CUỘC “THIÊN DI” CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ VÀ BÀ MẸ CHƯA TỪNG CÓ TRONG LỊCH SỬ…”, nhằm góp phần miêu tả “nhân vật chính của Thời Đại, biểu tượng cho cả một dân tộc vượt lên cảnh ngộ bi kịch tìm lối thoát cho quyền sống của mình”, rất nhiều người đã ủng hộ. Nhưng cũng có không ít người lồng lên phản đối như bị “chạm nọc”, thậm chí chửi bới rất tục tĩu (xin lỗi không viết ra vì xấu hổ thay cho họ). Để trả lời họ, với tư cách là một người làm phim, tôi xin có vài suy ngẫm về NHÂN VẬT THỜI ĐẠI giúp họ tham khảo.
08 Tháng Mười 20219:37 CH(Xem: 9826)
Trong toàn bộ thơ văn chữ Hán, chữ Nôm của Đại thi hào Nguyễn Du, có một kiểu/ loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt được ông thể hiện với cảm hứng thi ca và nghiệm sinh sâu sắc - đó là những người phụ nữ Tài - Sắc mà số phận bất hạnh, những “má hồng phận mỏng”, những giai nhân bạc mệnh, “hồng nhan đa truân”, phải chịu số phận “Tài Mệnh tương đố” với lời nguyền ác nghiệt: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”… Cần khẳng định ngay một điều là, cái vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ, cuốn hút, thấm đẫm hồn cốt phương Đông kèm theo tài hoa hiếm có của họ, với Nguyễn Du là “chất ngọc quý” của đời, như một giá trị mang tính nhân bản - dù họ ở tầng lớp con hầu, kỹ nữ dưới đáy xã hội, hay ở bậc nữ hoàng, phi tử cao vời…